| ||
Một số vấn đề đặt ra trong công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn hiện nay ở nước ta | ||
Tóm tắt: Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác lý luận, tổng kết thực tiễn. Hệ thống lý luận đó ngày càng được bổ sung, phát triển qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng, góp phần sáng tỏ những vấn đề lý luận đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Tuy nhiên trong bối cảnh tình hình mới của đất nước đã đặt ra những vấn đề trong công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Từ khóa:Nghiên cứu, tổng kết, lý luận, thực tiễn. 1. Những thành tựu trong công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của Đảng ta Những năm qua, thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, công tác lý luận, tổng kết thực tiễn ở nước ta đã có những bước phát triển “góp phần quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước”.[1] Nghị quyết số 01-NQ/TW, Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI đã khẳng định công tác lý luận của Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng. Tư duy lý luận của Đảng ta có bước phát triển; công tác tổng kết thực tiễn chú trọng, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn của đất nước. Hệ thống lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từng bước được hình thành một cách hệ thống, khái quát thể hiện ở bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, những nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về chiến lược bảo vệ Tổ quốc… Bên cạnh những kết quả đạt được, còn những hạn chế, bất cập của công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đại hội Đảng XII khẳng định: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”, “công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước’’[2]. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Nhận thức một số vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa sâu sắc, thống nhất, nhất là quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, sở hữu đất đai, phân bổ nguồn lực, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, hợp tác xã, tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập,... Tư duy trong xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế phù hợp với yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chậm được đổi mới, sức ỳ còn lớn. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức suy thoái đạo đức, lối sống và vi phạm đạo đức công vụ. Chưa thống nhất trong nhận thức và hành động về hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và về việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh, phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường” [3]. Trước những biến đổi nhanh chóng, khó lường, phức tạp của thế giới, khu vực, sự vận động, những thay đổi của nền kinh tế nước ta, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa theo kịp thực tiễn, chưa đáp ứng tốt yêu cầu sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Những hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân: Nguyên nhân khách quan: Công cuộc đổi mới nước ta ngày càng đi vào chiều sâu càng nảy sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp về lý luận và thực tiễn, không thể giải quyết, đáp ứng ngay trong một thời gian ngắn. Mặt khác, nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, mô hình kinh tế chưa có tiền lệ trong lịch sử trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường. Nước ta hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế có thuận lợi và còn nhiều nguy cơ, thách thức. Lý luận chưa theo kịp với thực tế phong phú, đa dạng của nền kinh tế và những tác động thế giới đến nền kinh tế nước ta. Nguyên nhân chủ quan: Thứ nhất, nhiều cấp ủy, chính quyền, cán bộ và đảng viên nhận thức chưa đầy đủ, chưa coi trọng công tác lý luận, chưa thấy rõ được sự cần thiết, vai trò, ý nghĩa của lý luận và tổng kết thực tiễn, vai trò của lý luận trong công tác lãnh đạo, quản lý. Thực tế không ít cán bộ, đảng viên chưa thực sự coi trọng nhiệm vụ học tập nâng cao trình độ, nhận thức về lý luận. Còn thiếu những quy chế, quy định mang tính pháp lý để gắn kết nghiên cứu lý luận, với tổng kết thực tiễn. Công tác chỉ đạo, tổng kết thực tiễn còn nhiều hạn chế ở một số địa phương, đơn vị, một số cán bộ, đảng viên. Có sự nhìn nhận, đánh giá thiếu khách quan, khoa học, không đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về thực tiễn, không chỉ ra được những nguyên nhân thực chất, không đưa ra được những phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp thực sự khả thi, phù hợp. Thứ hai, đổi mới tư duy lý luận có mặt còn lạc hậu so với thực tiễn. Chưa phát huy cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lý luận, có trách nhiệm của các cấp ủy đảng đối với công tác lý luận; chưa thấy tầm quan trọng, chưa có giải pháp phù hợp để khai thác năng lực trí tuệ của đội ngũ này. Điều kiện làm việc của các cơ quan lý luận và đội ngũ cán bộ lý luận còn nhiều khó khăn, bất cập. Việc đầu tư cho xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, các nguồn lực khác cho công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn còn chưa tương xứng, chưa đáp ứng tốt yêu cầu, chưa trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả chưa cao. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có đặc thù riêng, đi lên từ nước lạc hậu, “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa. Hiện nay, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn cần phải đáp ứng, phù hợp với mục tiêu, xu hướng phát triển, con đường lựa chọn, điều kiện thực tiễn của đất nước. Lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; về vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về văn hóa, chính sách xã hội, quốc phòng an ninh, kết hợp nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam với độc lập dân tộc, hội nhập quốc tế... cần tiếp tục được hoàn thiện, phát triển đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới đất nước. Những vấn đề đó đặt ra nhiều vấn đề mới và những thách thức cho công tác lý luận và tổng kết thực tiễn. Công tác lý luận của Đảng phải kịp thời tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trên cơ sở những căn cứ khoa học, thực tiễn có sức thuyết phục, từ đó củng cố lòng tin của nhân dân vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng, soi đường, chỉ lối cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Công tác lý luận phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong toàn bộ đời sống tinh thần xã hội; có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của xã hội. Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin có nghĩa là trung thành với bản chất khoa học, cách mạng. Công tác lý luận, tổng kết thực tiễn phải góp phần ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn tinh vi chống phá cách mạng nước ta… Hiện nay, các thế lực cơ hội, thù địch chống phá quyết liệt trên mặt trận tư tưởng, lý luận với chiến lược “diễn biến hòa bình”, công tác đấu tranh, phản bác của chúng ta còn bị động, chưa thực sự quyết liệt, một số vấn đề chưa đủ cơ sở cơ sở lý luận và thực tiễn. Mặt khác, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vừa mang lại những cơ hội mới, xu hướng phát triển mới, nhưng đồng thời tạo ra những nguy cơ mới, đặt ra những yêu cầu mới cho mỗi một quốc gia trong tiến trình hội nhập quốc tế, đó là tăng trưởng bền vững, phát triển xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế số, những vấn đề xã hội như việc làm, xóa đói giảm nghèo, khắc phục ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội, nước biển dâng, biến đổi khí hậu… Bên cạnh đó kết quả của gần 40 năm đổi mới của đất nước ta trên mọi phương diện có ý nghĩa lịch sử to lớn, vị thế nước ta ngày càng nâng lên, tạo ra thế và lực mới trên trường quốc tế; nhưng còn nhiều khó khăn, thách thức tác động đến công tác lý luận, tổng kết thực tiễn. Những cơ hội nếu không tận dụng để vươn lên thì sẽ có nguy cơ tụt hậu so với các nước khu vực và thế giới; nhiều vấn đề phức tạp mới nảy sinh trong quá trình phát triển. Những vấn đề đặt ra đối với công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn ở nước ta đòi hỏi cần phải tập trung quan tâm giải quyết. Trong thời gian tới cần tập trung vào những giải pháp sau: Một là,nâng cao, phát huy hơn nữa nhận thức và công tác lãnh, chỉ đạo của các cấp ủy đảng về công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn theo tinh thần của Đại hội Đảng lần thứ XIII, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác lý luận và tổng kết thực tiễn. Hai là,cần đầu tư xây dựng một đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận có trình độ, năng lực, phẩm chất tốt, có khả năng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, có khả năng nghiên cứu sâu, am hiểu kiến thức, đưa ra những cơ sở lý luận và tổng kết thực tiễn xác đáng, khoa học, làm căn cứ cho xây dựng, định hướng về quan điểm, xu hướng phát triển của đất nước; tạo ra khung khổ lý luận khoa học, cách mạng phù hợp với thực tiễn đất nước, từ đó đề ra những chiến lược, phương hướng, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn, thời kỳ. Xây dựng đội ngũ cán bộ chất lượng là công việc hệ trọng hàng đầu của Đảng, nhất là nhiệm vụ công tác lý luận của Đảng. Có chính sách thu hút nhân tài, tăng cường số lượng, đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận; hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành có uy tín; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác nghiên cứu lý luận. Phát triển lý luận gắn với thực tiễn xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ là cơ sở quan trọng để thực hiện nhiệm vụ, trọng trách mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao cho, nhằm củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ. Ba là,đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Luôn đổi mới nội dung, các hình thức tuyên truyền cho phù hợp, từ đó nâng cao hiệu quả việc học tập, vận dụng, thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Cần đổi mới các khâu từ việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng kế hoạch, xây dựng và tổ chức thực hiện các nội dung, chương trình, đề tài nghiên cứu cho phù hợp… Cần có định hướng nhanh nhạy, chính xác, đầy đủ, kịp thời mọi vấn đề của đời sống kinh tế, xã hội. Cần xây dựng đội ngũ các chuyên gia giỏi, có lý luận sắc bén, có năng lực chính trị để đưa ra những thông tin chính thống, kịp thời, nhanh nhạy, đủ khả năng lấn át thông tin giả, xuyên tạc, thông tin xấu, độc trên mạng xã hội. Bốn là,xây dựng cơ chế, môi trường thuận lợi, nguồn lực cần thiết cho công tác nghiên cứu lý luận. Có cơ chế đầu tư nguồn lực thỏa đáng cho các công trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trọng tâm, có chất lượng cao; phát huy dân chủ, thực hành dân chủ nghiên cứu lý luận, từ đó tạo động lực to lớn sáng tạo trong lý luận, đồng thời phải giữ nghiêm kỷ cương trong trong tuyên truyền, giảng dạy theo quy định tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nghiên cứu lý luận gắn với hoạt động thực tiễn, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, nhằm thực hiện mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh’’.
[1]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 118 [2]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 67 [3]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2021, t.2, tr.78. ThS. Đỗ Quỳnh Phương Trưởng khoa Lý luận cơ sở
| ||
Đường dẫn của bản tin này: http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn//.html&t=mot-so-van-de-dat-ra-trong-cong-tac-nghien-cuu-ly-luan-tong-ket-thuc-tien-hien-nay-o-nuoc-ta | ||
|