Thứ sáu, 18.11.2022 GMT+7

PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG TÁC PHẨM “MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CNXH VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM” CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa.

     Thực hiện lời dạy của Người, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng xây dựng, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa với tinh thần còn văn hóa là còn tất cả, mất văn hóa là mất tất cả. Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

     1. Nội dung cốt lõi về phát triển văn hóa con người Việt Nam trong tác phẩm: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CHXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

     Tác phẩm của Tổng Bí thư bao gồm những bài viết, bài phát biểu trong các hội nghị đã phác họa những vấn đề cơ bản, mang giá trị cốt lõi về chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trong đó, lĩnh vực văn hóa, xã hội là yếu tố trọng yếu nhằm xây dựng một chế độ xã hội giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức bất công, xây dựng một xã hội thật sự dân chủ, tự do vì hạnh phúc của con người. Trong xã hội đó, con người là mục tiêu phụng sự và cũng chính là chủ thể, lực lượng quyết định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

     Luận điểm về văn hóa, xã hội được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập trong bài viết, bài phát biểu: Quyết tâm chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Tiếp tục xây dựng, phát triển văn hóa nghệ thuật xứng tầm với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới; ngoài ra những chỉ dẫn quan trọng của Tổng Bí thư trong xây dựng văn hóa, xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn được đề cập xuyên suốt trong nhiều bài viết, bài phát biểu còn lại trong tác phẩm.

     Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì khi nói đến văn hóa là nói đến những gì tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ...

     Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các tiến bộ nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Đồng thời, Tổng Bí thư cũng xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội.

     Qua phân tích, luận giải của Tổng Bí thư về vấn đề xây dựng văn hóa xã hội trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã thể hiện những giá trị lý luận và thực tiễn cực kỳ quý báu về văn hóa xã hội trong tác phẩm như sau:

     Thứ nhất, văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.

     Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Điều này có nghĩa là các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau trong quá trình phát triển. Việc phát triển kinh tế phải gắn với liền với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong quá trình phát triển. Vấn đề mang tính nguyên tắc để đảm bảo sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là: Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo bền vững, chăm sóc người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Nguyên tắc này đảm bảo xây dựng xã hội mới đó là một xã hội mà con người chính là trung tâm của sự phát triển, là mục tiêu, là động lực của sự phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Điều này thể hiện tính ưu việt - bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là quan điểm xuyên suốt của Đảng về thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước, trong đó phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu thường xuyên.

     Bên cạnh đó, văn hóa cũng có vai trò to lớn riêng của mình, qua các kỳ đại hội, Đảng ta luôn khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ luận điểm: Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm.

     Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường và một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.

     Thứ hai, yêu cầu chấn hưng văn hóa dân tộc.

     Trước yêu cầu của quá trình hội nhập, sự phát triển của đất nước, văn hóa cần phải có sự chuyển động mạnh mẽ để hoàn thành sứ mệnh “soi đường cho quốc dân đi”, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Do đó, chấn hưng văn hóa dân tộc - tức là văn hóa phải trở nên hưng thịnh, vừa là khát vọng, đồng thời cũng là nhiệm vụ chính trị cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

     Trong bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", Tổng Bí thư nhấn mạnh: Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư nhấn mạnh nhiệm vụ chấn hưng văn hóa dân tộc chính là vấn đề xây dựng con người. Con người vừa là trung tâm, vừa là chủ thể của mọi quá trình xây dựng, phát triển văn hóa. Con người với tư cách là cán bộ lãnh đạo, quản lý đến con người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, từ con người sáng tạo đến con người thụ hưởng các giá trị văn hóa. Như vậy, muốn chấn hưng văn hóa dân tộc, trước tiên cần tập trung xây dựng con người. Con người cần được chăm lo bằng những chính sách cụ thể để ngày càng hoàn thiện hơn về về tri thức, kỹ năng, cảm xúc, thể chất nhằm xây dựng con người mới thật sự trở thành chủ thể của quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước.

     2. Vận dụng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của phòng Quản lý đào tạo & nghiên cứu khoa học

     Phòng QLĐT & NCKH là một trong 05 đơn vị của Trường Chính trị tỉnh gồm 15 cán bộ, giảng viên. Phòng có chức năng, nhiệm vụ tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hằng năm; tham mưu tổ chức thực hiện công tác nghiên cứu khoa học của trường.

     Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường, tập thể lãnh đạo, cán bộ, giảng viên, chuyên viên phòng QLĐT & NCKH đã luôn nỗ lực, tích cực, năng động, sáng tạo để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Tập thể phòng đã luôn nhận thức đúng đắn, toàn diện, sâu sắc những quan điểm về văn hóa, xã hội, con người của Đảng ta. Luôn có ý thức phát huy giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Coi trọng văn hóa trong chính trị, biết phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống.

     Thời gian tới, để tiếp tục góp sức vào công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, tập thể phòng QLĐT & NCKH cần quan tâm, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:

     Một là, mỗi cán bộ, giảng viên, chuyên viên của phòng cần thực hiện tốt văn hóa ứng xử trường Đảng.

     Ứng xử văn hóa là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, ngay từ khi dựng nước, các Vua Hùng đã cùng “tắm chung một dòng sông, uống chung một nguồn nước” với người dân. Ứng xử văn hóa được hiểu là cách cư xử, trò chuyện, giao tiếp, bàn bạc, trao đổi, phối hợp với nhau trong thực thi công vụ, trong giao tiếp và trong cuộc sống đời thường hằng ngày. Một người cư xử đúng mực, hành động cũng như lời nói của họ tạo nên sự thoải mái và nhã nhặn khiến người khác hài lòng, được yêu quý và tôn trọng. Ngược lại, có thể gây ức chế, tạo tâm lý nặng nề, thậm chí là sự phản ứng mạnh mẽ. Đối với phòng QLĐT & NCKH, trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được gặp gỡ rất nhiều người ở nhiều độ tuổi, nhiều ngành nghề khác nhau, chưa hiểu rõ mỗi đối tượng học viên là người như thế nào, do đó, trước hết hãy tỏ ra là người lịch sự, biết quan tâm, lắng nghe những gì đối phương nói.

     Mỗi cán bộ, giảng viên, chuyên viên của phòng cần học cách ứng xử vừa phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc, đồng thời phải có phong cách ứng xử chuẩn mực của người cán bộ, đảng viên trong công tác, trong học tập và làm việc; xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, dân chủ, văn minh, hiện đại, gương mẫu, khoa học và nhân văn.

     Hai là, ứng xử của Lãnh đạo phòng.

     Lãnh đạo phòng đối với công việc cần trách nhiệm, chủ động, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành; đặt lợi ích tập thể lên lợi ích cá nhân; không ngừng nghiên cứu học hỏi, tích lũy tri thức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; chịu trách nhiệm về lĩnh vực mà mình được phân công phụ trách. Đối với cấp trên: phải trung thực, khách quan trong báo cáo; tôn trọng và chấp hành sự phân công của lãnh đạo; đề xuất, đóng góp ý kiến và tham mưu hiệu quả đối với lĩnh vực mình đảm trách. Đối với cấp dưới: Phải phát huy vai trò tiên phong, sống bao dung, tôn trọng, gương mẫu về đạo đức lối sống; dân chủ, bình đẳng, không phân biệt đối xử; bố trí, sắp xếp, giao nhiệm vụ phù hợp với năng lực, sở trường của từng người; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, giám sát công việc và đánh giá khách quan việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương khi thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mỗi cán bộ, giảng viên, chuyên viên. Xây dựng bầu không khí làm việc thực sự dân chủ, sáng tạo, hoạt động hiệu quả. Bài trí phòng làm việc khoa học, gọn gàng, sáng, xanh, sạch, đẹp, có tính thẩm mỹ mang lại cảm giác vừa thân thiện, gần gũi, gắn bó, vừa mang tính tôn nghiêm, mực thước nơi công sở.

     Ba là, ứng xử trong phối hợp thực hiện nhiệm vụ chuyên môn với các phòng, khoa và các cá nhân trong trường.

     Trong phối hợp thực hiện nhiệm vụ với các khoa, phòng cần làm việc khoa học, chặt chẽ, đặt lợi ích chung lên hàng đầu. Phải hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Chủ động sắp xếp, gặp gỡ bàn bạc, trao đổi và thống nhất công việc với đơn vị phối hợp. 

     Tại điểm a, mục 3 của Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ có quy định: “Trong thực thi nhiệm vụ, công vụ phải tuân thủ tính thứ bậc, kỷ cương và trật tự hành chính, đúng thẩm quyền”. Vì vậy, từ cán bộ lãnh đạo, quản lý cho đến giảng viên, chuyên viên trong phòng ai cũng xác định đúng chức trách, nhiệm vụ, xác định đúng chức phận của mình, tuân thủ tính thứ bậc, kỷ cương, biết tôn trọng người phối hợp thực hiện nhiệm vụ, thẳng thắn bàn bạc, trao đổi và thống nhất công việc thì chắc chắn tập thể phòng sẽ ít xáo trộn, ít chia rẽ, ít bè cánh và không mất đoàn kết nội bộ.

     Bốn là, ứng xử trong phát ngôn, trong giao tiếp.

     “Ngôn là người”, ngôn ở đây không chỉ hiểu là giọng nói mà còn là cách nói, kiểu nói, cung cách trò chuyện. Lời ăn tiếng nói trong cuộc sống là những gì rất giản dị như cơm ăn áo mặc hằng ngày. Nhưng nói làm sao cho hay, cho đẹp, có lễ nghĩa, có văn hóa là điều cần có sự rèn luyện và tu dưỡng của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân phải học, “học ăn, học nói, học gói, học mở”; học ở sách vở, ở mọi người, ở cuộc sống. Không đem việc cá nhân vào trong công việc, cần điềm tĩnh, không nóng giận, cáu gắt, quát nạt đồng nghiệp và cấp dưới. Thái độ cáu gắt, khó chịu sẽ làm cho mọi người không thiện cảm, không dám lại gần. Cuộc sống sẽ tươi đẹp và có giá trị nếu chúng ta luôn nở một nụ cười và bắt đầu giao tiếp bằng một nụ cười, nó sẽ là một sự khởi đầu và là ấn tượng tốt đẹp. Nụ cười thân thiện được xem làm một trong những nghệ thuật giao tiếp phi ngôn ngữ nơi công sở, nó còn là “thang thuốc bổ” để nuôi dưỡng cơ thể con người. 

     Cần thực hiện nghiêm túc kỷ luật phát ngôn, không phát ngôn tự do bừa bãi. Với đồng chí, đồng nghiệp phải hòa nhã, lịch sự, không xúc phạm nhân phẩm, danh dự của nhau; biết nói lời cảm ơn, xin lỗi, chào hỏi, tôn trọng, học hỏi lẫn nhau. Với học viên phải lịch sự, đúng mực khi giao tiếp, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của học viên.

     Về trang phục cần phải kín đáo, gọn gàng, thanh thoát, lịch lãm sẽ khiến chúng ta tự tin trong giao tiếp, chiếm được thiện cảm của người khác. Trang phục công sở ở trường Đảng là nơi thể hiện một phong thái lịch sự, trang nhã của người giảng viên.

     Năm là, ứng xử với học viên.

     Học viên trường Đảng là những người học có chức vụ trong các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể; họ là người có năng lực, trình độ nhất định; có kinh nghiệm thực tiễn trong công tác; một số học viên có học vị bằng hoặc cao hơn giảng viên; mục đích, thái độ học tập của học viên khác nhau; độ tuổi của học viên không đồng đều, một số học viên tuổi đời cao hơn giảng viên... Do vậy, trong giảng dạy, quản lý lớp cần hòa nhã, lịch sự, không quát nạt, hạch sách học viên, lạnh lùng, xa cách, xem thường học viên.

     Mỗi cán bộ, giảng viên, chuyên viên của phòng trong ứng xử với học viên phải có thái độ lịch sự, đúng mực trong giao tiếp, tôn trọng ý kiến của học viên; là tấm gương về đạo đức cách mạng, về lập trường, quan điểm, bản lĩnh chính trị, về kiến thức, về tác phong, về phương pháp… Trong quản lý lớp phải công bằng, công tâm, không biệt đối xử; tác phong phải thể hiện tính mô phạm; chủ động cập nhật kiến thức mới, không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; thể hiện tính hòa đồng, hòa nhã; nghiêm khắc nhưng không lạnh lùng, xa cách; thực hiện nghiêm kỷ luật phát ngôn; chống lại những lời nói và việc làm sai trái, xuyên tạc, phản động; luôn có ý thức giữ gìn uy tín, danh dự của cơ quan, đơn vị và bản thân.

     Sáu là, xây dựng phong cách làm việc chuyên nghiệp.

     Cần rèn luyện phong cách làm việc chuyên nghiệp, tự trau dồi để có sự hiểu biết rộng, giỏi chuyên môn, tham mưu hiệu quả, làm việc sáng tạo, toàn tâm, toàn ý để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất. Phong cách làm việc chuyên nghiệp còn là cách phối hợp, điều tiết công việc phù hợp với tiến độ và môi trường xung quanh để tạo nên hiệu quả tốt nhất; tác phong làm việc cũng phải năng động, khoa học; phải chuyên nghiệp trong giao tiếp, ứng xử; có ý thức tổ chức kỷ luật, tích cực tham gia các hoạt động của nhà trường.

     Bảy là, thực hiện tốt văn hóa về tự phê bình và phê bình.

     Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là thứ "vũ khí thần diệu" để Đảng thường xuyên trong sạch, vững mạnh.

     Do vậy, mỗi cá nhân của phòng QLĐT & NCKH cần phải tuân thủ nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Mấu chốt của tự phê bình và phê bình là “phê bình việc, chứ không phê bình người” để giúp nhau tiến bộ; phê bình tránh tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, mượn phê bình để lấy lòng nhau; phê bình phải tôn trọng thực tế khách quan, công tâm, thẳng thắn, không nghi ngờ, vội vàng quy kết cho đồng chí mình, đừng vì thích thì tốt, không thích và trái ý mình thì xấu, thì sai; phê bình phải công khai, tránh tình trạng trước mặt thì không nói nhưng lại soi mói sau lưng; phê bình cũng giống như chữa bệnh cứu người, cho nên phải chân thành, tế nhị, phải thân ái trên tinh thần đồng chí, đồng đội. 

     Vận dụng luận điểm về phát triển văn hóa con người Việt Nam trong tác phẩm: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CHXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của phòng QLĐT & NCKH là một trong những nội dung quan trọng để xây dựng tập thể phòng vững mạnh. Việc nâng cao nhận thức và thực hiện văn hóa trường Đảng là rất cần thiết. Mỗi người cần thay đổi quan niệm, tác phong làm việc, thay đổi nhận thức và suy nghĩ về thái độ, hành vi ứng xử với mọi người, tiến dần đến chuẩn mực nền hành chính “chuyên nghiệp và hiện đại”. Từ đó, góp phần xây dựng một trường Đảng chuẩn mực, đoàn kết, gương mẫu, uy tín, chất lượng, văn minh và hiện đại.

 

Đường dẫn của bản tin này: http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn//.html&t=phat-trien-van-hoa-con-nguoi-viet-nam-trong-tac-pham-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-cnxh-va-con-duong-di-len-cnxh-o-viet-nam-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong
© TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH PHÚ THỌEmail: kiencuongtct@gmail.com