Thứ tư, 01.07.2020 GMT+7

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA

Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc. Là một quốc gia ven Biển Đông, có đường bờ biển dài 3.260 km từ Bắc xuống Nam dọc theo bờ biển phía Đông – Đông Nam và Tây Nam, vùng biển Việt Nam rộng lớn với hàng nghìn đảo lớn nhỏ, đặc biệt là có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong Biển Đông có vị trí rất quan trọng trong chiến lược xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.

Quần đảo Hoàng Sa nằm trong khu vực Biển Đông, từ 15ᴼ45’ đến 17ᴼ15’ vĩ độ Bắc, 111ᴼ đến 113ᴼ kinh độ Đông, gồm trên 30 đảo, đá, cồn san hô, đá ngầm và bãi cạn được chia thành hai nhóm (nhóm An Vĩnh ở phía Đông và nhóm Lưỡi Liềm ở phía Tây); cách đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi - Việt Nam: 120 hải lý. Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo Hoàng Sa khoảng 10 km2 và đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm, diện tích khoảng 1,5 km2. 

       Quần đảo Trường Sa nằm trong khu vực Biển Đông, từ 6ᴼ50’ đến 12ᴼ vĩ độ Bắc, 111ᴼ30’ đến 117ᴼ20’ kinh độ Đông, gồm trên 100 hòn đảo, đá, cồn san hô và bãi cát, bãi ngầm; cách Cam Ranh (tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam) 248 hải lý, cách đảo Phú Quý (tỉnh Bình Thuận, Việt Nam) 203 hải lý; trong đó có một số đảo quan trọng như Trường Sa, An Bang, Ba Bình, Nam Yết, Loại Ta, Thị Tứ, Song Tử Đông, Song Tử Tây… Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo Trường Sa khoảng 3 km2, trong đó đảo Ba Bình lớn nhất, rộng khoảng 0,5 km2. 

        Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất quản lý liên tục, hòa bình, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cho đến thế kỷ XVII, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn là các đảo vô chủ: Việt Nam đã xác lập, thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo này một cách hòa bình, liên tục và không gặp phải sự phản đối của bất cứ quốc gia nào. Vào đầu thế kỷ XVII, chúa Nguyễn tổ chức “đội Hoàng Sa”, lấy người từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi ra quần đảo Hoàng Sa thu lượm hàng hóa của các tàu mắc cạn, đánh bắt hải sản quý hiếm đem về dâng nộp, đồng thời đo vẽ, trồng cây và dựng mốc trên hai quần đảo. Đầu thế kỷ XVIII, chúa Nguyễn tổ chức thêm “đội Bắc Hải”, lấy người của thôn Tứ Chính hoặc xã Cảnh Dương, phủ Bình Thuận cấp giấy phép ra quần đảo Trường Sa, cũng với nhiệm vụ như “đội Hoàng Sa”.   

       Tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới hiện còn lưu giữ nhiều tư liệu, sách cổ, văn bản pháp lý của nhà nước, bản đồ thể hiện thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, như “Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá tự Công Đạo năm 1686, “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn biên soạn năm 1776, “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú năm 1821, “Hoàng Việt địa dư chí” năm 1833, “Đại Nam thực lục tiền biên” (1844 – 1848), “Đại Nam thực lục chính biên” (1844 – 1848), “Việt sử cương giám khảo lược” năm 1876, “Đại Nam nhất thống chí” năm 1882, “Dư địa chí Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ” năm 1910, “Quốc triều chính biên toát yếu” năm 1910, “Hải ngoại ký sự” của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán năm 1696, “An Nam đại quốc họa đồ” của Giám mục người Pháp Louis Taberd, “Đại Nam nhất thống toàn đồ” năm 1838…. Các Châu bản triều Nguyễn là các văn bản hành chính chính thức của triều đình nhà Nguyễn (thế kỷ XVII, XVIII) có dấu son của Vua là cơ sở pháp lý khẳng định việc Nhà nước phong kiến Việt Nam đã xác lập và triển khai nhiều hoạt động thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 

       Trong thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền thực dân Pháp đã tiến hành bảo vệ và quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo đúng thủ tục pháp lý đương đại. Từ những năm 1925 – 1927, Pháp đã tổ chức điều tra trên quần đảo Hoàng Sa và duy trì tuần tra trên quần đảo này. Liên tục các năm 1930 – 1933, Pháp đã đưa quân đội ra đóng ở quần đảo Trường Sa. Pháp đã quy thuộc hai quần đảo này vào các tỉnh đất liền. Năm 1933, Pháp đã sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa (Nam Kỳ), đến năm 1938 đã thành lập đơn vị hành chính ở Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên. Pháp đã cho quân đồn trú, đặt cột mốc, xây hải đăng, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đồng thời, trong quan hệ quốc tế, Pháp đã nhiều lần lên tiếng phản đối yêu sách của các nước khác đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

       Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng đã được thừa nhận tại Hội nghị San Francisco (9/1951) – Hội nghị giải quyết vấn đề quy thuộc các vùng lãnh thổ sau Chiến tranh thế giới thứ II, với sự tham gia của 51 quốc gia. Tại hội nghị này, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ Trần Văn Hữu đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp bất cứ sự bảo lưu và phản đối nào của 50 quốc gia tham dự còn lại.

       Sau khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Pháp đã chuyển giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền Sài Gòn (Việt Nam cộng hòa), với tư cách là chính thể có tư cách pháp lý trong quan hệ quốc tế, đã tiếp tục bảo vệ và quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1954 đến 1975. Chính quyền Việt Nam cộng hòa đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đã chiếm hữu trên thực tế và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này. Năm 1956, chính quyền Sài Gòn quyết định quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy và năm 1961, chuyển quần đảo Hoàng Sa, tỉnh Thừa Thiên vào tỉnh Quảng Nam. 

        Cùng với việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tháng 4/1975, Hải quân Việt Nam đã giải phóng các đảo do quân đội của chính quyền Sài Gòn (Việt Nam cộng hòa) đóng giữ: Đảo Trường Sa, Sơn Ca, Nam Yết, Song Tử Tây, Sinh Tồn, An Bang. Đồng thời Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Liên tục từ đó đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế. Về quản lý hành chính, năm 1982, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập huyện đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, hiện nay huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc thành phố Đà Nẵng, huyện đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hòa. Tháng 4/2007, để hoạt động quản lý hành chính hiệu quả hơn, Chính phủ đã quyết định thành lập Thị trấn Trường Sa và hai xã là Song Tử Tây và Sinh Tồn thuộc huyện đảo Trường Sa.   

        Như vậy, theo phương thức thụ đắc lãnh thổ (là việc thiết lập ranh giới địa lý chủ quyền của một quốc gia đối với một vùng lãnh thổ mới theo những phương thức phù hợp với nguyên tắc của luật pháp quốc tế), một quốc gia được coi là có chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ khi quốc gia đó chứng minh được mình đã chiếm hữu, thực thi, quản lý và khai thác lãnh thổ đó với tư cách Nhà nước một cách liên tục, hòa bình. Theo đó, Việt Nam đã xác lập, thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế.  

        Là một quốc gia ven Biển Đông, Việt Nam có nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển; đồng thời cũng đứng trước những thách thức lớn trong công cuộc bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, quốc phòng an ninh, giao thông thương mại, khai thác và bảo vệ tài nguyên, bảo đảm thi hành pháp luật trên biển. Hiện nay, Trung Quốc nêu yêu sách chủ quyền và đã dùng vũ lực chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (vào các năm 1956, 1974) và 7 bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị Trung Quốc đánh chiếm bằng vũ lực vào năm 1988 (Bất cứ hành động chiếm đóng bằng vũ lực nào ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều vi phạm nghiêm trọng Hiến chương Liên hiệp quốc và các chuẩn mực luật pháp quốc tế). Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình; Philippines đóng ở 9 đảo, bãi thuộc quần đảo Trường Sa; Malaysia đóng ở 5 đảo, bãi thuộc quần đảo Trường Sa; Brunây nêu yêu sách đối với một phần vùng biển phía Nam của quần đảo Trường Sa.

       Nhà nước Việt Nam trước sau như một khẳng định nhất quán chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Lập trường nhất quán này được thể hiện trong Tuyên bố năm 1977 về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam; Tuyên bố năm 1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam; Nghị quyết của Quốc hội năm 1994 phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật Biển Việt Nam năm 2012, cũng như trong các tuyên bố chính thức của Việt Nam đã nhiều lần mạnh mẽ khẳng định: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”. Đồng thời Việt Nam quyết tâm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích chính đáng của mình trên Biển Đông. Việt Nam tiếp tục tiến hành các hoạt động bình thường tại các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình theo đúng quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. 

       Nguồn: “Tài liệu định hướng công tác tuyên truyền về biển đảo” – Uỷ ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao.

Đường dẫn của bản tin này: http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn//.html&t=chu-quyen-cua-viet-nam-doi-voi-hai-quan-dao-hoang-sa-va-truong-sa
© TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH PHÚ THỌEmail: kiencuongtct@gmail.com