Thứ hai, 18.06.2018 GMT+7

TÌM HIỂU MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA LUẬT AN NINH MẠNG ĐƯỢC THÔNG QUA TẠI KỲ HỌP THỨ 5 QUỐC HỘI KHÓA XIV

Ngày 12/6/2018, Luật An ninh mạng đã được Quốc hội biểu quyết thông qua với 423 trên tổng số 466 đại biểu có mặt tán thành (đạt tỷ lệ 86,86%); 15 đại biểu không tán thành; 28 đại biểu không biểu quyết. Luật An ninh mạng quy định về hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian.An ninh mạng là sự bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bảo vệ an ninh mạng là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng.

Luật An ninh mạng gồm 7 chương, 43 điều quy định về hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Cụ thể:

Chương I (từ Điều 1 đến Điều 9)về những quy định chung như: phạm vi điều chỉnh của Luật; giải thích các thuật ngữ; chính sách của Nhà nước ta về an ninh mạng; nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng; biện pháp bảo vệ an ninh mạng. Tại Điều 8 của Luật An ninh mạng quy định chi tiết 6 nhóm hành vi bị nghiêm cấm. Cụ thể, người dùng bị cấm sử dụng không gian mạng để thực hiện các hành vi: Tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước; Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc;…

Các hành vi như: Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác cũng bị cấm. Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng,… đều là các hành vi bị cấm.

Cá nhân, tổ chức vi phạm các điều cấm của Luật An ninh mạng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Chương II (từ Điều 10 đến Điều 15) quy định về bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Hệ thống hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia là hệ thống thông tin khi bị sự cố, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt, tấn công hoặc phá hoại sẽ xâm phạm nghiêm trọng an ninh mạng (như hệ thống thông tin quân sự, ngoại giao, cơ yếu, thông tin thuộc bí mật nhà nước, trên các lĩnh vực trọng yếu về kinh tế như tài chính, ngân hàng, viễn thông, thông tin phục vụ hoạt động của các cơ quan tổ chức ở Trung ương…). Ngoài ra, Chương II cũng quy định các nội dung khác như: Thẩm định an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 11); Đánh giá điều kiện an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 12); Kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 13); Giám sát an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 14); Ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 15).

Chương III dành 7 điều (từ Điều 16 đến Điều)quy định về phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng. Cụ thể, tại Điều 16 về phòng ngừa, xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã quy định rõ các thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và trách nhiệm của các tổ chức cá nhân trong việc phòng ngừa, xử lý các thông tin này. Chương III còn quy định các nội dung khác như: Phòng, chống gián điệp mạng; bảo vệ thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng (Điều 17); Phòng, chống hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều 18); Phòng, chống tấn công mạng (Điều 19); Phòng, chống khủng bố mạng (Điều 20); Phòng ngừa, xử lý tình huống nguy hiểm về an ninh mạng (Điều 21); Đấu tranh bảo vệ an ninh mạng (Điều 22).

Chương IV (từ Điều 23 đến Điều 29)quy định về bảo vệ an ninh mạng, gồm: Triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị ở trung ương và địa phương (Điều 23); Kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của cơ quan, tổ chức không thuộc Danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 24); Bảo vệ an ninh mạng đối với cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế (Điều 25); Bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng (Điều 26); Nghiên cứu, phát triển an ninh mạng (Điều 27); Nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng (Điều 28).

Tại Khoản 3 Điều 26 về bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng đã quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính phủ. Doanh nghiệp nước ngoài quy định tại khoản này phải đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam.

Về quy định trên, khi xây dựng và góp ý về dự thảo Luật An ninh mạng, nhiều ý kiến đã cho rằng việc quy định như vậy là một ngoại lệ về an ninh, không bảo đảm tính khả thi, làm gia tăng chi phí của doanh nghiệp nước ngoài, gây khó khăn cho các hoạt động tiếp cận thông tin và trái với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, thực tế hiện nay đã có hơn 18 quốc gia thành viên của Tổ chức thương mại thế giới - WTO (trong đó có Mỹ, Canada, Úc, Đức, Pháp…) quy định bắt buộc doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ trên không gian mạng phải lưu trữ dữ liệu trong lãnh thổ quốc gia. Ngoài ra, tại các Hiệp định cơ bản của WTO như (Hiệp định GATT, Hiệp định GATS) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP đều có điều khoản ngoại lệ về an ninh. Do đó, việc Việt Nam áp dụng các điều khoản ngoại lệ về an ninh trong Luật An ninh mạng là hết sức cần thiết để bảo vệ lợi ích của người dân và an ninh quốc gia. Hiện nay, các doanh nghiệp về công nghệ như Google và Facebook đang lưu trữ dữ liệu của cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam tại trung tâm dữ liệu đặt tại Hồng Kông (Trung Quốc) và Singapore. Khi Luật An ninh mạng có hiệu lực thì các doanh nghiệp này phải dịch chuyển đám mây điện toán (máy chủ ảo) về Việt Nam để mở trung tâm dữ liệu tại Việt Nam là hoàn toàn khả thi. Đồng thời, khi hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng phải phối hợp với cơ quan chức năng của Việt Nam, tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam, việc đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam được ví như “túm người có tóc” và phòng trường hợp cần xử lý ngay các hiện tượng xâm hại tới an ninh quốc gia, quyền con người, thuần phong mỹ tục; đồng thời Chính phủ sẽ căn cứ tình hình thực tiễn để quy định phạm vi doanh nghiệp cụ thể phải áp dụng quy định này, nên sẽ không gây cản trở lưu thông dòng chảy dữ liệu, không ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp khác, kể cả doanh nghiệp khởi nghiệp.

Ngoài ra, tại Điều 29 về bảo vệ trẻ em trên không gian mạng đã quy định trẻ em có quyền được bảo vệ, tiếp cận thông tin, tham gia hoạt động xã hội, vui chơi, giải trí, giữ bí mật đời sống riêng tư và các quyền khác khi tham gia trên không gian mạng. Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình sử dụng có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong việc đảm bảo quyền của trẻ em trên không gian mạng. Cơ quan, tổ chức, cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em và cá nhân khác liên quan có trách nhiệm bảo đảm quyền của trẻ em bảo vệ trẻ em khi tham gia không gian mạng theo quy định của pháp luật về trẻ em.

Chương V (từ Điều 30 đến Điều 35)quy định về bảo đảm hoạt động bảo vệ an ninh mạng. Trong đóLực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng được bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Lực lượng bảo vệ an ninh mạng được bố trí tại Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia và tổ chức, cá nhân được huy động tham gia bảo vệ an ninh mạng.

Một số quy định khác như: bảo đảm nguồn nhân lực bảo vệ an ninh mạng; Tuyển chọn, đào tạo, phát triển lực lượng bảo vệ an ninh mạng (Điều 32); Giáo dục, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ an ninh mạng (Điều 33); Phổ biến kiến thức về an ninh mạng (Điều 34); Kinh phí bảo đảm hoạt động bảo vệ an ninh mạng (Điều 35).

Chương VI (từ Điều 36 đến Điều 42)về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đã quy định trách nhiệm của các cơ quan như Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Cơ yếu Chính phủ; các Bộ, ngành và địa phương, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng; cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng.

Chương VII  (Điều 43)quy định về điều khoản thi hành, Luật An ninh mạng có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019.

Luật An ninh mạng là cơ sở pháp lý quan trọng, giúp cơ quan chức năng xử lý những nguy cơ, thách thức từ không gian mạng một cách kịp thời và hiệu quả, bảo đảm an ninh quốc gia, đảm bảo tốt hơn môi trường kinh doanh lành mạnh cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Đường dẫn của bản tin này: http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn//.html&t=tim-hieu-mot-so-noi-dung-cua-luat-an-ninh-mang-duoc-thong-qua-tai-ky-hop-thu-5-quoc-hoi-khoa-xiv
© TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH PHÚ THỌEmail: kiencuongtct@gmail.com