Thứ bảy, 28.04.2018 GMT+7

TỪ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐẾN CỤ THỂ HÓA NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Vấn đề đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự để loại bỏ tình trạng oan sai, đảm bảo quyền con người đã được Đảng ta đề cập trước hết trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” xác định “…việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo… để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định”.

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”cũng đã đề ra yêu cầu: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp”.

Với các Nghị quyết nêu trên cho thấy quan điểm của Đảng coi tranh tụng là khâu đột phá trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp, nâng cao chất lượng tranh tụng sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác xét xử, tránh oan sai và bảo vệ các quyền cơ bản của người bị buộc tội. Yêu cầu đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự thể hiện qua các Nghị quyết của Đảng là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về tố tụng hình sự.

Thực hiện các quan điểm chỉ đạo của Đảng, vấn đề đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự đã từng bước thể chế hóa vào quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật về tố tụng hình sự, được ngành Tòa án áp dụng vào thực tiễn công tác xét xử từ nhiều năm qua.

Về mặt pháp lý, mặc dù thuật ngữ “tranh tụng” chưa được đề cập chính thức trong các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể, song từ thực tế hoạt động xét xử các vụ án hình sự có thể hiểu: tranh tụng trong tố tụng hình sự là tranh luận giữa các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội) dựa trên những tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án, làm cơ sở cho việc ra phán quyết của Tòa án.

Trước đây, mô hình tố tụng hình sự ở nước ta theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chủ yếu là mô hình thiên về xét hỏi. Tranh tụng chỉ được thể hiện trong quá trình xét xử tại Tòa án giữa Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng nên kết quả, chất lượng tranh tụng chưa cao. Trong một số vụ án, việc giải quyết phụ thuộc chủ yếu vào tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, dẫn đến việc giải quyết chưa chính xác, thiếu khách quan, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, nhiều vụ án, vụ việc đã được giải quyết sau đó đã bị kết luận oan sai, để lại bài học kinh nghiệm sâu sắc cho ngành Tư pháp.

Trên cơ sở tinh thần cải cách tư pháp mạnh mẽ và cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng, vấn đề đảm bảo nguyên tắc tranh tụng đã được ghi nhận tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 thành một nguyên tắc mới: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” và trở thành cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng và thực hiện nguyên tắc này trong thực tế. Từ nền tảng nguyên tắc Hiến định, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26) tại Chương II. Những nguyên tắc cơ bản để cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp:

Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ trước Tòa án.

Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.

Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.

Đây là lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được quy định trực tiếp trong Bộ luật Tố tụng hình sự, từ đó nguyên tắc tranh tụng cũng đã được ghi nhận trong các quy định khác của Bộ luật nhằm tăng cường hiệu quả, chất lượng tranh tụng trong toàn bộ tiến trình tố tụng vụ án hình sự, bảo đảm quyền con người, chống oan sai, nhanh chóng xác định sự thật khách quan của vụ án. Nội dung của nguyên tắc tranh tụng được thể hiện qua một số vấn đề sau:

Một là, nguyên tắc đã khẳng định quá trình tranh tụng được diễn ra trong suốt quá trình tố tụng vụ án hình sự, được bắt đầu ngay từ giai đoạn khởi tố, tức là bắt đầu từ khi xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm và xuyên suốt đến giai đoạn xét xử, đảm bảo cho các bên tham gia tố tụng có đầy đủ thời gian, điều kiện cần thiết để thu thập, củng cố chứng cứ, hồ sơ, tài liệu và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại phiên tòa xét xử.

Hai là, về chủ thể tranh tụng, bao gồm hai bên là bên buộc tội (Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng) và bên gỡ tội (người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác).

Ba là, về mối quan hệ, vị trí giữa các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng là bình đẳng. Đây là sự cụ thể hóa nguyên tắc Hiến định mọi người đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 16 Hiến pháp năm 2013), là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ có trên cơ sở thực sự bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng mới đảm bảo chất lượng, hiệu quả.

 Đồng thời, để đảm bảo sự bình đẳng, nguyên tắc này cũng quy định rõ trách nhiệm của Tòa án trong hoạt động tranh tụng. Tòa án phải đứng ở vị trí trung gian, độc lập, khách quan, bảo đảm cho hai bên buộc tội và gỡ tội thực hiện quyền hạn, chức năng của mình. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh luận dân chủ trước Tòa án.

Bốn là, nguyên tắc xác định “tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp” để các chứng cứ của vụ án phải được thể hiện đầy đủ trước Tòa, làm căn cứ cho việc xét hỏi, tranh luận công khai, khách quan, toàn diện và để việc tranh tụng diễn ra được thuận lợi nhất.

Năm là, nguyên tắc quy định phiên tòa xét xử phải bảo đảm sự có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu vắng mặt thì chỉ được vắng vì lý do bất khả kháng, do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do luật định nhằm bảo đảm sự tranh tụng giữa các bên.

Sáu là, nguyên tắc quy định “Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòaĐiều này cũng cho thấy, hoạt động tranh tụng công khai tại phiên tòa là sự thể hiện tập trung nhất, cơ bản nhất của nguyên tắc tranh tụng. Bản chất của quá trình tranh tụng này là việc các bên đưa ra những trình bày, tranh luận, phản biện để làm rõ các chứng cứ buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa. Thông qua tranh tụng giữa các bên, Tòa án có thể hiểu rõ hơn toàn bộ các tình tiết của vụ án, tái hiện lại vụ án một cách trung thực, khách quan, trên cơ sở đó áp dụng chính xác của quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để đưa ra phán quyết đúng đắn nhất.

Bảy là, nguyên tắc quy định “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa” nhằm khẳng định rõ việc tranh tụng chỉ là hình thức nếu kết quả tranh tụng không được thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án; Bản án, quyết định của Tòa phải căn cứ vào sự thật khách quan đã được làm rõ qua hoạt động tranh tụng trực tiếp, công khai tại phiên tòa xét xử.

Như vậy, việc quy định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự góp phần nâng cao chất lượng công tác xét xử của Tòa án các cấp, chống oan sai, bảo vệ quyền con người; đồng thời cũng cho thấy quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong tiếp tục thực hiện tiến trình cải cách tư pháp với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.       

Đường dẫn của bản tin này: http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn//.html&t=tu-quan-diem-chi-dao-cua-dang-den-cu-the-hoa-nguyen-tac-tranh-tung-trong-to-tung-hinh-su-theo-quy-dinh-cua-phap-luat-viet-nam-hien-hanh
© TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH PHÚ THỌEmail: kiencuongtct@gmail.com