Thứ hai, 09.04.2018 GMT+7

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

Ngay từ những ngày đầu của cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vấn đề quyền con người luôn luôn được quan tâm và là một trong những mục tiêu cao cả nhất trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng tới nay. Ngày 12/7/1992, Ban Bí thư (khóa VII) ban hành Chỉ thị 12/CT-TW về "Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta". Chỉ thị 12/CT-TW của Ban Bí thư đã đề cập đến những nội dung cốt lõi nhất của vấn đề quyền con người và quan điểm của Đảng ta về vấn đề quan trọng này.

Thứ nhất, trước hết Đảng ta khẳng định rõ, quyền con người là giá trị chung của nhân loạiĐó là thành quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới chống lại mọi áp bức, bóc lột và khẳng định quyền con người làm chủ thiên nhiên. Quan điểm này chỉ rõ nguồn gốc của quyền con người, giúp chúng ta có cơ sở bác bỏ các học thuyết tư sản về nhân quyền tự nhiên và coi nhân quyền là phát kiến, là giá trị của phương Tây.

Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại. Con người thể hiện và khẳng định quyền của mình thông qua các mối quan hệ xã hội cụ thể.Vì thế, quyền con người, một mặt, là giá trị phổ biến của nhân loại, bao hàm những quyền và nguyên tắc được áp dụng phổ biến ở mọi nơi, mọi đối tượng. Mặt khác, quyền con người còn mang tính đặc thù của mỗi giai cấp, dân tộc và quốc gia theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hoá và truyền thống dân tộc. 

 Do đó, nhất thiết không thể đối lập tính phổ biến với tính đặc thù của quyền con người và ngược lại. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, quan điểm kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù còn là cơ sở phương pháp luận khoa học để nhận thức và giải quyết đúng các vấn đề cụ thể về quyền con người trong quan hệ quốc gia và quốc tế. Đây là phương châm cơ bản để bảo đảm “hội nhập” mà “không hòa tan” trong lĩnh vực nhân quyền.  

Thứ hai, trong xã hội có phân chia giai cấp đối khángkhái niệm quyền con người có tính giai cấp sâu sắc. Quan điểm này nhắc nhở chúng ta phải tỉnh táo, không được mơ hồ khi xem xét những vấn đề nhân quyền cụ thể.Quyền của các quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường phát triển và chủ quyền quốc gia là những quyền phổ biến được thừa nhận trong pháp luật quốc tế. Việc thực hiện các giá trị phổ quát của quyền con người cơ bản diễn ra trong quá trình chuyển hóa hay “nội luật hóa” pháp luật quốc tế trong pháp luật quốc gia. Ở nước ta, các giá trị phổ quát của quyền con người đã được thể chế hóa trong Hiến pháp. Việc bảo đảm quyền con người theo phương châm trên giúp mỗi cá nhân được bảo đảm các quyền dân chủ, tự do cơ bản. Bảo đảm quyền và nghĩa vụ cá nhân không được tách rời bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cộng đồng. Bảo đảm quyền con người phải trên cơ sở chủ quyền quốc gia, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nhân quyền quốc tế, như quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác...  để loại trừ mọi mưu toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” trên con đường phát triển đất nước.

Để thực hiện các giá trị phổ quát của quyền con người trên cơ sở chủ quyền quốc gia, Việt Nam chủ động và tích cực đối thoại, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực nhân quyền, vừa giúp bạn bè quốc tế hiểu hơn về thành tựu, quan điểm và giá trị nhân quyền của nước ta, vừa là cơ hội học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc chuyển hóa pháp luật quốc tế về nhân quyền vào pháp luật trong nước. Từ đó góp phần bảo đảm tốt hơn các quyền con người ở Việt Nam, cũng như đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền trong khu vực và trên thế giới.

Thứ ba, giải phóng con người (trong đó có việc đảm bảo các quyền con người) gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội; chỉ có dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có điều kiện được bảo đảm rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất. Quan điểm này nhằm khẳng định lại mục tiêu mà những người cộng sản theo đuổi là xoá bỏ nguồn gốc sâu xa nhất của mọi vi phạm nhân quyền - đó là ách áp bức dân tộc, giai cấp; xác định việc bảo đảm tối đa quyền con người là thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội kết hợp chặt chẽ với nhau: lợi ích cá nhân được coi trọng vì đó là mục tiêu, là động lực của sự phát triển xã hội, song cần chú trọng bảo đảm lợi ích của tập thể và của cả cộng đồng dân tộc. Đây là quan điểm phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa, cũng là thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta theo đuổi so với các xã hội loài người từng biết.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”. Điều 2, Hiến pháp năm 2013 quy định “Nhà nước pháp quyền XHCN, của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; nhân dân là chủ nhân của đất nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Như vậy, nhân dân là chủ thể của quyền và việc bảo đảm quyền con người là mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ năm, quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Quan điểm này có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì nó chỉ ra được cách giải quyết một trong những mối quan hệ cơ bản nhất của vấn đề nhân quyền, khắc phục được cách hiểu phiến diện, cực đoan về vấn đề nhân quyền.

Dân chủ là quyền lực xã hội của con người, được thể chế hóa cơ bản theo nguyên tắc bảo đảm quyền công dân và quyền con người nói chung. Quyền con người phải thông qua thể chế dân chủ mới được hiện thực hóa, được mở rộng, bảo đảm gắn với quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và các tổ chức xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ sáu, quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia. Bảo đảm quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia. Trách nhiệm pháp lý này đã được Liên Hợp quốc qui định. Mặt khác, chính Liên Hợp quốc cũng đã nhấn mạnh trong Hiến chương của mình: Không quốc gia nào, kể cả Liên Hợp quốc, có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia.

Thứ bảy, quyền con người luôn luôn gắn với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước. Do vậy không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho nước khác.

Chỉ thị 12/CT-TW của Ban Bí thư về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta đã xác định rõ, bảo đảm quyền con người là trách nhiệm chung mà tất cả các ngành, các cấp, các địa phương, cơ sở phải tích cực và chủ động thực hiện, nhằm ngày càng hoàn thiện và nâng cao các quyền con người, vì lợi ích của nhân dân ta. Quyền con người là vấn đề đang được đặt ra trong các mối quan hệ quốc tế, chúng ta cần làm tốt công tác đối ngoại, trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, thiện chí hợp tác trên lĩnh vực quyền con người, đồng thời đấu tranh với những âm mưu lợi dụng vấn đề này để chống phá ta.

Thứ tám, quyền con người gắn với các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. Theo C.Mác quyền “không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định”. Do đó, không thể thúc đẩy nhân quyền bằng mọi giá, mà phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và con người. Chỉ như vậy mới không làm tổn hại đến bản thân các quyền con người. Đây là tư tưởng chỉ đạo quan trọng trong giải quyết các vấn đề về quyền con người, nhằm tránh tình trạng chủ quan, duy ý chí trong xây dựng pháp luật, cũng như tình trạng lạc hậu của pháp luật so với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.

Thứ chín, bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền, có ưu tiên quyền của các nhóm yếu thế, thiểu số và quyền phát triển. Tất cả các quyền đều gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau và không thể phân chia: mọi chủ thể của quyền (cá nhân, nhóm xã hội, giới tính, dân tộc, chủng tộc) đều có quyền ngang nhau trong việc thụ hưởng, phát triển quyền. Vì thế, về nguyên tắc, phải bảo đảm quyền ngang nhau của mọi quyền; và bảo đảm quyền ngang nhau của tất cả các chủ thể quyền. Những yếu tố bình đẳng trong việc bảo đảm quyền con người từng bước được kết hợp, thẩm thấu vào việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của các chủ thể quyền khác nhau trong xã hội.

Trên cơ sở đó, ở mức độ nhất định, thực hiện sự ưu tiên bảo đảm quyền phát triển và quyền an sinh xã hội, nhất là của các nhóm yếu thế và thiểu số. Việc ưu tiên như vậy nhằm thúc đẩy việc bảo đảm quyền ngang nhau về mặt pháp luật đối với các chủ thể quyền trên tất cả các lĩnh vực quyền.

Như vậy, có thể thấy, vấn đề quyền con người và bảo đảm quyền con người ở Việt Nam là một trong những vấn đề trọng tâm, có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta ghi nhân và bảo vệ quyền con người không chỉ trong Hiến pháp mà còn được quy định trong hệ thống pháp luật. Đặc biệt trong Chỉ thị 12/CT-TW về "Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta" đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề này. Đảm bảo thực hiện tốt quyền con người ở Việt Nam cũng thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hôị chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang phấn đấu xây dựng.

Đường dẫn của bản tin này: http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn//.html&t=quan-diem-cua-dang-cong-san-viet-nam-ve-quyen-con-nguoi
© TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH PHÚ THỌEmail: kiencuongtct@gmail.com